Chiều cuối năm

Ngày cuối năm, những cái điện thoại rung lên bần bật với tần suất ngày càng dày hơn: nào thì đòi nợ, nào thì hóa đơn, nào thì hẹn hò yêu đương, nào thì mẹ ơi mai con về...
Ngày cuối năm, mọi ngã tư ùn ứ các loại xe, rất nhiều hàng hóa cồng kềnh, rất nhiều màu sắc hòa trộn. Và cũng rất nhiều tiếng còi xe, dù biết là bấm còi chẳng có tác dụng mà sao vẫn nhiều người thích làm cái việc vô dụng này đến thế nhỉ? Ngẫm mà xem, cứ cái tư duy "dàn hàng ngang" trong văn hóa giao thông thế này thì mọi con đường ở Việt Nam đem đổi chiều dài thành chiều rộng cũng chả đủ cho xe cộ ngược xuôi, nhể!
Ngày cuối năm, mọi văn phòng chộn rộn, í ới... Phòng kế toán xôm tụ hơn cả. Kẻ ra người vào, ai khoản gì chưa thanh toán là gom tất ra làm một lần tổng kết. Nào thì lương, nào thì tiền ăn trưa, nào thì thưởng Tết dương lịch, nào thì thanh quyết toán công tác, này kia nọ khác... Cứ như mổ bò, mổ lợn chiều 30 Tết ngày xưa í.
Ngày cuối năm, các chị em chat chit chiu chíu, chỉ để hẹn hò đi làm tóc, mặc đồ gì để vừa đẹp vừa ấm trong lễ tiệc cuối năm. Anh em độc thân thì tơi tới alo hẹn người yêu: lát anh qua đón nhé, đi cùng công ty anh vui lắm. Còn các anh đã đeo gông vào cổ, giọng chẳng hào hứng cho lắm, cơ mà vẫn tròn vẹn: Em sửa soạn cho hai nhóc đi nhé, lát anh về đón mấy mẹ con đi tiệc công ty. Bỗng dưng, buổi tiệc cuối năm của các văn phòng bây giờ lại trở thành một thứ văn hóa rất phổ biến, và rất ấm áp giữa những ngày mùa đông giá rét!
Ngày cuối năm, hơi tủi cho những ai còn độc thân. Ăn trưa một mình, cafe một mình, đi đâu, làm gì cũng một mình giữa rộn ràng của phố, giữa hân hoan của người! Lòng chợt chùng xuống. Đâu đó có dòng nước mắt vừa đủ ướt hai hàng mi mà chưa kịp trào ra khỏi khóe mắt.
Ngày cuối năm, những cái điện thoại rung lên bần bật với tần suất ngày càng dày hơn: nào thì đòi nợ, nào thì hóa đơn, nào thì hẹn hò yêu đương, nào thì mẹ ơi mai con về... Ấm áp! Và cũng chen chúc nhau đi đăng ký thông tin cho cái sim đã gắn bó bao lâu nay nữa chứ. Ối người nản!

Ngày cuối năm, Bờ Hồ chen chúc người giữa tràn ngập sắc hoa. Bờ Hồ như nhỏ lại giữa biển người, và nóng! Mấy ai thả bộ ngắm đường hoa mà không cởi áo khoác đâu... Giữa vô vàn màu sắc, vẫn lụi lầm bao dáng người vất vả mưu sinh. Những bà, những cô áo không đủ ấm, những đôi tay chai sần và nứt nẻ, những dáng gầy nhọc nhằn bên xe hàng cuối chiều giá rét.
Chiều cuối năm, những cụ ông tay gân guốc đồi mồi vẫn mải miết nặn từng con tò he đủ màu mà trẻ con mê mẩn. Chợt nhói lòng trước đối thoại giữa hai người đang tuổi cha - con: Bao nhiêu tiền một con tò he? Hai nghìn cô ạ! Đắt thế, một nghìn thôi. - Không được cô ơi. - Không thì thôi... Đứa trẻ bị mẹ kéo đi, mắt vẫn ngoái lại đám tò he đầy tiếc nuối. Đôi mắt cụ già bàng bạc màu sương, màu còn sẫm hơn cả sương chiều cuối năm... Hai đôi mắt một già, một trẻ giao nhau nơi đám tò he đầy sống động giữa phố...
Ngày cuối năm, các siêu thị, trung tâm thương mại tấp nập, ai cũng tranh thủ ngó nghiêng mong có được món hàng ưng í với giá "xả kho cuối năm". Ai cũng mong bố mẹ, con cái sẽ có đồ mới, đồ đẹp. Ai cũng mong ngóng giờ tan tầm để về với ấm áp gia đình, về với yêu thương.
Ngày cuối năm, có những người chợt ngồi lắng lại... Chỉ để nhớ về những vùng quê Bắc Bộ. Mùa này đất ruộng nâu đang thấm mưa phùn, nước chưa về đến ruộng, cải bắp, su hào, hành, tỏi, cần tây, cà rốt mơn mởn chờ Tết, cà chua rực một góc ruộng, cũng chờ phiên chợ cuối năm, dù năm nào giá cũng rẻ đến quặn lòng! Đó đây, những vạt cải vàng hươm sắt lại giữa gió đông và mưa rắc hạt... Đường làng ngõ xóm giờ bê tông hết rồi, nhưng vẫn rơi rụng lá trúc, lá tre, vẫn vệt xe bùn đất và vết chân người, chân trâu vừa từ ruộng lên...
Ngày cuối năm, có đứa nhận đến 3 cuộc điện thoại mời dự tiệc công ty. Người muộn nhất là anh sếp cũ ở công ty mà mình đã rời đi 4 năm rồi, chưa năm nào bên đó quên gọi mình. Ấm áp, xúc động! - Thôi, mình cũng chuẩn bị đi dự tiệc nào!

Kang -- Theo VnExpress

Bạn bè...


Theo thông tin thu nhận được, hiện tại bạn Huỳnh Giao lớp chúng ta đang phải chống chọi với một căn bệnh nguy hiểm (theo thông tin ban đầu thì đó là bệnh Sán lá gan), Giao đã nhập viện vào đầu mùa hè vừa rồi và đến giờ vẫn chưa xuất viện được. Đây là một căn bệnh có thể chửa khỏi nếu phẩu thuật tuy nhiên do sức khỏe của Giao chưa đảm bảo nên vẫn chưa phẫu thuật được...
Hiện tại Giao đang điều trị tại bệnh viên Chợ Rẫy.

Hãy cùng động viên và quan tâm bạn của mình nha các bạn!

Chúc cho Giao sớm có được sức khỏe tốt để có thể tiến hành cuộc phẫu thuật và chúc cho bạn sớm khỏe mạnh trở lại.

Album kỷ niệm một năm ra trường


Một Album đã là dự án mà lớp chúng ta ấp ủ từ lâu nhưng bấy lâu nay vẫn chưa làm được do nhiều lý do.


Nghe bài "Nhỏ ơi" do Mr_Lâm trình bày nha!

Kỷ niệm một năm ngày ra trường Lâm tui định khôi phục lại dự án này bằng cách...sẽ cho ra lò một album made by VHDL9. Theo đó, mời các bạn sắp xếp thời gian tới phòng Lâm (gần đồn Công An Thảo Điền - Tòa Án cũ) để ta tiến hành thu âm một album nhạc với những ca khúc về bạn bè, trường lớp... Tất nhiên tất cả đều do thành viên của VHDL9 trình bày.

Sau khi thu âm xong, album này sẽ được giới thiệu trên Blog này đồng thời sẽ "tặng" cho mỗi thành viên mỗi CD vào ngày họp lớp gần nhất.

Hi vọng nhận được ý kiến từ mọi người.

Bạn nào muốn tham gia CD này xin vui lòng liên lạc với Lâm trước để sắp xếp lịch thu âm.

Một số ca khúc được chọn để thu âm: Cho bạn cho tôi, vào hạ, nhỏ ơi, ...

Liên hệ với Lâm theo số 0985792559 hoặc nguyenlamdl@gmail.com

Nhạc võ Tây Sơn


TỪ VĂN MINH TRỐNG ÐỒNG
Bộ môn văn hóa này, theo dân thoại Bình Ðịnh gọi là “Nhạc Võ Tây Sơn” và theo nhạc pháp gọi là “Song Thủ Ðả Thập Nhị Cổ”. Ai cũng biết, sắc thái đặc biệt trong nền văn hóa cổ xưa của người Việt nổi bật hơn cả là việc dùng trống. Những cuộc khai quật đã đem đến cho các nhà khảo cổ cái trống đồng mà đặc trưng hơn cả là “trống đồng Ngọc Lũ” là chứng cớ đặc biệt của nền văn minh Việt.
“Tiếng trống từ xưa đến nay đối với dân tộc Việt Nam vẫn là hiệu lệnh để thi hành công việc tập đoàn, để báo hiệu một công việc có quan hệ chung, trống ra quân, trống ngũ liên, trống thu không, trống cầm canh… thường ở đình làng nào cũng có cái trống lớn để báo hiệu, trước khi là một công việc nghệ thuật từ trống chầu đến cầm chầu cho con hát. Vậy dụng ý của trống đồng là đại biểu uy lực của thủ lãnh quần chúng, ban hành mệnh lệnh để rồi trở nên huy hiệu của mệnh lệnh và trở nên thiêng liêng, cho đến thời quốc gia độc lập mới có đền thờ “Ðồng Cổ” như là quốc giáo (1).
Vì vậy, ta có thể nói rằng việc chế tạo và sử dụng trống là sở trường của Văn Hoá Việt Nam, và không có chi là lạ khi ta biết rằng trong thời Tây Sơn (1788-1802) sắc thái đặc biệt nọ của văn hóa dân tộc được anh em Nguyễn Nhạc khai thác đến triệt để, thì nghệ thuật chơi trống cũng đưa đến tuyệt đỉnh
ÐẾN NHẠC VÕ TÂY SƠN
Nhạc khí căn bản của nhạc võ Tây Sơn là một dàn trống do quân Tây Sơn dùng khi thao diễn quân sĩ tại võ trường, khi xuất quân cho khí thế thêm mạnh mẽ, khi thúc quân lướt tới trận mạc cho mau lẹ, khi cần hành quân tiến thối nhịp nhàng, khi hãm thành cho uy thế thêm mãnh liệt, hoặc là khi khải hoàn mà reo mừng thắng trận.
Bộ trống đúng theo kinh điển gồm 12 cái, mỗi cái mang tên một con giáp của thập nhị chi: tí, sửu, dần, mẹo, thìn… và khi học nhạc thì tên các con giáp này cũng là tên các cung bậc do tiếng trống phát ra. Ðường kính mỗi trống lớn, nhỏ khác nhau, da bịt trống thì căng chùng, thẳng cũng khác nhau nên tiếng trống cao thấp khác nhau.
NGHỆ THUẬT ÐÁNH TRỐNG
Khi đánh trống thì nghệ sĩ dùng roi trống (dùi trống), có khi bỏ cả roi trống mà chỉ dùng những ngón tay, dùng bàn tay, dùng nắm tay, dùng cùi chỏ… nghĩa là dùng đủ cả bộ phận của hai tay. Trường hợp dùng roi trống thì cứ mỗi nhịp điệu cử động của ta là ta có thể nghe được bốn âm thanh phát ra: nơi đầu roi trống (1), kéo sang đuôi roi trống (2), hạ cùi chỏ xuống (3), và bật ngửa nắm tay vào mặt trống (4). Cứ như thế mà hai tay của nghệ sĩ nhảy múa trên 12 cái trống khi lơi lả nhẹ nhàng, khi dồn dập gấp rút, khi phấn khởi khoan thai. Chỉ có hai cái tay mà đánh cả một dàn trống 12 cái nên nhạc pháp gọi là “Song Thủ Ðả Thập Nhị Cổ”.
Tuy nhiên, trong trường hợp mà nghệ sĩ vượt khỏi tầm kinh điển đến bậc siêu thặng thì ngoài 12 cái trống đặt ngay trước mặt để cho hai tay sử dụng theo đúng nhạc pháp Song Thủ Ðả Thập Nhị Cổ, hãy còn đặt thêm 5 cái trống khác ở phía sau: một cái đặt ngang nơi đầu để đầu ngả ngửa húc vào, hai cái đặt ngay hai bên hông cho hai cùi chỏ thúc vào và còn hai cái nữa thì đặt cho vừa tầm hai gót chân để đá hậu vào, vị chi là 17 cái trống. Nghệ sĩ “chơi” nổi 17 cái trống (ông Tám Ngang) thì không còn nữa, mà trước đây chỉ còn có nghệ sĩ chơi được 12 trống mà thôi. Tuy nhiên, khi nghe xem thì vẫn thấy là siêu việt.
Trước khi chơi, nghệ sĩ đi một đường quyền, bái tổ rồi mới bắt đầu đánh trống và các bản nhạc lần lượt nổi lên. Nghệ sĩ, điệu bộ hùng dũng, công lực dồn lên nét mặt, trổ ra hai tay dồn dập bên 12 cái trống xem như một nghệ sĩ đang múa đường quyền bên 12 cái trống kiểu lăng ba vi bộ nên mới gọi là nhạc võ. Nghệ sĩ chơi bộ môn này cần phải biết võ thuật và khiếu thẩm âm để sự biệu diễn tăng thêm phần ngoạn mục.
NGHỆ THUẬT BỊ MAI MỘT
Những năm trước đây, không nghe ai nhắc đến “Nhạc Võ Tây Sơn” là vì một lẽ dễ hiểu. Thói đời thắng được thì là vua mà thua là giặc. Khi nhà Tây Sơn thất bại, nhà Nguyễn Gia Long chiến thắng, nhà Tây Sơn bị nhà Nguyễn tru di đến nỗi mộ phần của các Ngài cũng bị quật lên, nghiền xương tán nhỏ làm thuốc súng bắn xuống biển, các tôi trung nhà Tây Sơn đều phải mai danh ẩn tích. Thậm chí đến những cái hay của nhà Tây Sơn cũng phải dấu đi kẻo để lộ cho người khác biết được đi báo thì sẽ bị tù đày. Do đó mà di tích nhà Tây Sơn đều bị phá bỏ hết. Ðồng bào Bình Khê thương nhớ ba Ngài lén lập đền thờ mà bề ngoài cũng phải ngụy trang là miếu thờ thần. Ai có thương nhớ giữ được cái gì hay của Ba Ngài thì để bụng chẳng dám phô trương vì sợ chính quyền nhà Nguyễn mà hay được thì không tránh khỏi hậu quả khốc hại. Nhạc võ Tây Sơn cũng cùng chung cái số phận này.
Tôi cũng xin phép mở một cái dấu ngoặc tại đây để nêu lên một lý do thứ hai (Thi sĩ Quách Tấn cho biết: Ngày xưa, môn võ thuật Bình Ðịnh chia làm 4 bộ môn: côn, quyền, kiếm, cổ (trống) chứ không phải kích.
Về môn Cổ thì võ sinh thường treo lủng lẳng ngay hàng, hàng năm, muời cái trống (loại trống chầu hát bội) để tập võ. Võ sinh sẽ đánh, đá vào cá cái trống ấy. Trống bị sức mạnh đánh, đá sẽ văng ra xa và nhờ dây treo thối ngược lại. Lối tập võ bằng trống này, một là để tạo những cú đánh (đấm), đá mạnh, nặng cân hơn; hai là để tập sự nhanh nhẹn chống đỡ, tránh né. Nếu ai không tinh mắt lẹ tay thì chắc chắn sẽ bị trống thối ngược lại đập cho vỡ mặt, gãy xương.
Lần về sau, dường như con người mỗi ngày một yếu dần nên không còn ai dám tập võ bằng trống nữa mà tập bằng những bao đựng cát hoặc bằng bưởi, bòng… Từ đó, danh từ tập võ bằng trống không còn ai dám nhắc tới vì nhắc tới cũng thêm hổ thẹn với người xưa, dần dà rồi mai một.
Có người bảo Nhạc Võ Tây Sơn là biến thể của lối tập võ bằng trống này. Ðiều đó không lấy gì làm chắc. Nhưng nếu quả vậy thì nhà Tây Sơn thật là kỳ tài đã khéo khai thác từ bộ môn võ thuật chuyển sang bộ môn âm nhạc, rồi lại dùng âm nhạc mà giáo dục võ thuật, gây không khí hào hứng trong quần chúng, kích động lòng hăng say chiến đấu của các chiến sĩ bằng tiếng trống.
Ngày nay, tại Kampuchia, người ta cũng dùng trống để tập võ. Trên võ đài Miên mà thiếu tiếng trống thì võ sinh không tài nào biểu diễn được). Xin khép ngoặc lại.
NHƯNG CÓ NGƯỜI CÒN GIỮ ÐƯỢC CHÂN TRUYỀN
Nhưng may thay, vận nước đổi dời, khi thực dân bị lật đổ, nhà Nguyễn cũng nhào theo thì chỉ có hai người, một ở Bình Khê (nay là Tây Sơn) và một ở Tuy Phước, tỉnh Bình Ðịnh, còn giữ được cái chân truyền ấy và xem như quốc bảo. Người ở Bình Khê là ông Tám Ngang, ông là người sử dụng được 17 cái trống, ông đem dạy lại cho ba người: hai đứa con trai ông và một người học trò. Ðứa con trai đầu chết, đứa thứ hai thì năm 1954 ở trong đoàn văn công của tập kết ra Bắc, còn lại người học trò kia là nghệ sĩ Tân Phong (tức Nguyễn Phong). Người ở Tuy Phước tên là ông Bầu Thơm (tức Võ Ðôn) là một ông bầu hát bội và cũng là một nhạc sư về loại nhạc hát bội, ông dạy lại một người học trò đó là nghệ sĩ Mười Thông (tức Hoàng Thông) là một nghệ sĩ hát bội và một roi trống hát bội có hạng.
Hai ông thầy vì tuổi già đã qui tiên còn lại hai người học trò trên kia, tuy không phải bậc siêu đẳng đánh nổi 17 trống, song cũng học được đúng truyền thống của nhạc pháp “Song Thủ Ðả Thập Nhị Cổ”. Trước năm 1975, ở Phù cát có anh Nguyễn Việt cũng tập đánh được 12 trống và ở Bình Khê có hai em bé gái (một em 7 tuồi, và một em 12 tuổi) do đoàn Ca Võ Nhạc Tây Sơn đào tạo cũng tập đánh được 5 trống (ngũ âm) xem rất ngộ.
Riêng Tân Phong, anh là một nghệ sĩ chơi thạo các môn như vẽ vời, ca hát, đờn địch, đắp tượng, chạm trổ, điêu khắc, viết tuồng, đóng kịch… Cái gì anh cũng thảy làm được. Nghe đâu anh cũng đã thất lộc cách đây vài năm. Xin thắp cho anh một nén hương lòng thương tiếc một người bạn tài hoa.
GIÓNG TRỐNG KHẮP NƠI
Trước năm 1975, anh Tân Phong vì mang nặng một tinh thần dân tộc nên anh sẵn sàng muốn truyền lại cho đoàn hậu bối cái quốc túy của văn hóa dân tộc, anh cũng đã thuận lời mời đi trình diễn Nhạc Võ Tây Sơn này nhiều nơi. Tôi còn nhớ:
Ngày 8-11-1967, Hội Văn Hoá Bình Dân Sài Gòn mời anh trình diễn tại trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ tại Sải Gòn nhân có buổi lễ của cơ quan UNESCO tổ chức tại trường này.
Ngày 11 và 12-1-1968, trình diễn tại rạp Thống Nhất Sài Gòn và sân Tinh Võ Chợ Lớn do ban Quản Trị Ðiện Tây Sơn Bình Khê tổ chức dưới sự giúp đỡ của Hội Ðức Trí Thể Dục SAMIPIC (Société pour l’Amélioration Moral Intellectuelle et Physique des Indochinois de Cochinchine) và đoàn thể Vovinam.
Ngày 16-8-1969, trình diễn tại Trung Tâm Văn Hoá Bình Ðịnh tại Qui Nhơn nhân ngày khánh thành Trung Tâm này có sự chứng kiến của ông Quốc Vụ Khanh Mai Thọ Truyền, đặc trách Văn Hoá, ông Ðại sứ Ðại Hàn Dân Quốc và rất đông quan khách Việt Hàn Mỹ tham dự.
Ngày 15-3-1970, được phái đoàn điện ảnh Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị thu hình và đã trình chiếu trên màn ảnh truyền hình Việt Nam vào đêm 25-4-1970 tại Sài Gòn và tại Cần Thơ, Qui Nhơn, Huế vào các đêm kế tiếp.
Ngày 18-6-1970, được phái đoàn Ðiện ảnh Bộ Thông Tin thu hình làm phim tài liệu và sẽ trình chiếu trên các màn ảnh ciné và truyền hình.
Nghe đâu, sau năm 1975, hai em bé ở Bình Khê mà đoàn Ca Nhạc Võ Tây Sơn đào tạo năm nào nay cũng đã mang trống Tây Sơn đi đánh xứ người, được nhân dân nhiều nước tán thưởng.
Ngoài ra, hàng năm vào ngày mồng 5 Tết tại điện Tây Sơn Bình Khê, tiếng trống kích cảm của môn Nhạc võ Tây Sơn đã vang lên mở đầu cho chương trình tế lễ vua Quang Trung và lễ hội Tết đống Ða, kỷ niệm trận chiến thắng quân Thanh oanh liệt nhất trong lịch sử của vua Quang Trung Nguyễn Huệ vào mùa xuân năm Kỷ Dậu 1979.
Ai có dự xem trên phim ảnh các lối đánh trống ở nước ngoài đều phải công nhận rằng nghệ thuật đánh trống của Tây Sơn thật là kỳ ảo.
Trước năm 1975, ban Phổ biến Nhạc Võ Tây Sơn lại còn biểu diễn phối hợp giữa Nhạc võ Tây Sơn và Võ thuật Bình Ðịnh bằng cách khi nhạc võ nổi lên thì các võ sinh nam nữ ở bên ngoài đi những đường quyền, những đường côn, siêu, đao… múa, đá, tọa, nhảy nhịp nhàng theo tiếng trống và đờn, kèn, xụp xõa, mõ phụ họa xem chẳng khác chi những corps de ballet của Tây phương.
BÀI BẢN NHẠC VÕ
Vì mang danh là nhạc võ nên bài bản phần nhiều cũng mang tính chất quân sự như bài: Khai Trường, Xuất Quân, Hành Quân, Hãm Thành, Khải Hoàn.
Nhạc võ Tây Sơn, muốn biểu diễn đúng theo truyền thống và xem cho đẹp mắt thì trước hết, đi đầu là bộ phận của chiêng, trống, có quân hầu, lọng che; theo sau là hai toán quân (mặc áo cạp nẹp, chân quấn vòng ve, đầu đội nón dấu, tay cầm đao, kiếm, côn…) rồi đến giàn Nhạc Võ đặt trên một chiếc xe đẩy (Nhạc trưởng đứng giữa, hai bên là bốn nhạc công: đờn, kèn, xụp xõa, mõ phụ họa); sau rốt là vị tướng chỉ huy lẫm liệt trên mình voi hoặc ngựa.
Bắt đầu biểu diễn, vị tướng kêu gọi:
Ngoài biên thùy quân thù xâm lấnTrong nội tình đất nước lâm nguyPhận làm trai sinh tử nẹ chiQuyết một dạ lên đường cứu quốc!
Nhạc trưởng tiếp theo
Anh em ơi!
(Toàn thể nhạc công) “Dạ”
Lệnh trên đà ban xuốngPhận dưới phải thi hànhDùng kế mưu kích cổ đa thanhÐịch lầm tưởng hùng binh vạn đội
Ðằng trước khởi chinh cổ, giàn nhạc võ nổi lên và lần lượt theo các bài bản do vị tướng chỉ huy.
1.- Bài Khai Trường
Bài Khai Trường chỉ dùng để luyện tập quân sĩ hay chào mừng các vị tướng chỉ huy khi cần đến diễn võ trường. Ðiệu nhạc khoan thai, hùng dũng.Thuở xưa, mỗi dịp có vị Hoàng đế hay vị Nguyên soái đến diễn võ trường để mở một cuộc diễn võ, tập võ hay là chọn tướng sĩ thì khi vị ấy bước vào võ trường, mỗi xứ có một điệu nhạc riêng để chào mừng nhà lãnh đạo. Riêng đối với quân Tây Sơn, điệu nhạc đó là ba hồi trống khai trường. Nhưng mà nhạc hát bội thường chỉ có hai cái trống căn bản gọi là “trống âm” và “trống dương” hay “trống quân” và “trống chiến”. Nếu người ta biết rằng hát bội ngày nay là do cụ Ðào Tấn ở Bình Ðịnh lập thành qui chế, thì phép đánh trống của hát bội cũng đánh nhái theo điệu Khai Trường của Nhạc Võ Tây Sơn.
Trống Khai Trường của hát bội phải đánh đúng ba sách, mỗi sách tám phách. Khi đánh đúng 24 phách, nhạc sĩ mở ra thành trống chiến và chờ cho trống quân gióng giáp ba hồi lại 9 tiếng thì người trống chiến phải thét theo. Khi thét xong, nghĩa là khai trường xong thì nhạc sĩ mở trống ra cho nghệ sĩ ra sân khấu. Lúc đó thì người hát hát thứ gì, nam, khách hay xuân… thì người đánh trống phải đánh theo thứ ấy. Nhưng thường người đánh trống chỉ được quyền đánh khi người nghệ sĩ trên sân khấu đã “thủ” và “vĩ”. Nếu người đánh trống tự ý đánh theo, gọi là đánh nhái.
Nói về bài bản của nhạc hát bội thì có 8 bài kể từ bài nhịp một đến nhịp tám còn âm thanh hay hoặc dở tùy theo người nhạc sĩ bắt già hay non mà thôi.
2.- Bài Xuất Quân
Xuất quân có nghĩa là đem quân đội ra chiến trường, nó có nghĩa là khởi hành và bao giờ khởi hành thì điệu nhạc phải làm sao cho tinh thần chiến sĩ phấn khởi lên, hăng hái lên và cũng phải gây cho được trong lòng mọi người một niềm tin chiến thắng. Do đó, nhạc xuất quân của Nhạc Võ Tây Sơn theo điệu này là một điệu nhạc hùng, nhịp của nó càng nhặt làm cho tim mọi người đập càng lúc càng mau, nghe hăng hái, phấn khởi.
3.- Bài Hành Quân
Ta tưởng tượng một đạo quân hùng hậu đã xuất quân trong tình thần tối cao nhưng mà sau một khúc đường dài chắc hẳn cũng đã thấy mệt mỏi. Trong lúc ấy vị tướng chỉ huy chỉ kêu gọi nầng cao tinh thần suông, chúng ta có cảm tưởng rằng lời kêu gọi ấy không được đáp ứng. Trái lại, nếu lời khuyến khích là một lời êm ái, dịu dàng, có vẻ vui vẻ, có vẻ đùa cợt … thay vì đem lời hùng hồn thì đem lời an ủi êm ái, chắc có lẽ kết quả sẽ hay hơn.
Ðọc truyện Tàu, chúng ta còn nhớ lúc Quản Di Ngô ngồi trong cũi để được đưa về nước Tề thì thấy các quân khiêng cũi hơi mệt mỏi nên Quản Di Ngô bèn đặt ra những bài ca, bài hát để cho quân sĩ đi theo nhịp bài ca mà quên mệt mỏi. Còn trong dã sử của Tây Sơn, người Bình Khê thường thuật lại rằng: Khi quân Tây Sơn đi ra Thăng Long ngày đêm không nghỉ phải hai người võng một người thì tránh sao khỏi cái việc khiêng liên tiếp mười mấy ngày, quân Tây Sơn cũng có thể mệt mỏi, và huyền thoại truyền rằng vua Quang Trung mới bày ra chuyện thi đua kể chuyện tiếu lâm để cho quân sĩ hào hứng quên sự mệt mỏi và, chúng tôi cũng tin rằng không biết chừng dàn trống của Nhạc Võ Tây Sơn lúc ấy lại trổi khúc hành quân nhằm mục đích giống như mục tiêu của việc thi đua kể chuyện tiếu lâm trên kia.
Khúc nhạc này của Nhạc Võ Tây Sơn cũng diễn tả được cái ý nghĩ đó. Khúc nhạc này có đoạn nhạc sĩ chỉ đánh thuần bằng tay không, bằng những ngón tay, bàn tay, nắm tay và cùi chỏ nghe rất vui tai và xem đẹp mắt.
4,- Bài Hãm Thành
Bây giờ chúng ta lại tưởng tượng tiếp như đoàn quân Tây Sơn đã đến dưới chân thành và vị tướng chỉ huy đã ra lệnh hãm thành thì phận sự của nhạc sĩ sử dụng giàn trống là phải gây cho chiến sĩ một tinh thần nỗ lực tối đa để công phá thành trì hầu cướp được cho mau lẹ. Ðiệu nhạc này nghe thật là sôi nổi, dồn dập, kích động tối đa lòng dũng cảm của mọi người.
5.- Bài Khải Hoàn
Và sau cùng là bài Khải Hoàn. Ðiệu nhạc này dĩ nhiên âm thanh phải diễn đạt cho được sự vui mừng, phấn khởi, hò reo của kẻ chiến thắng.
Ai đã có nghe xem Nhạc Võ Tây Sơn sẽ nhận rõ điều đó. Tôi nói nghe và xem vì Nhạc Võ Tây Sơn xem đã đẹp mắt mà nghe cũng vui tai. Ðiệu bộ và âm thanh hòa nhịp khi khoan, khi nhặt, khi bổng, khi trầm, khi lơi lả, lúc dồn dập thật là khó tả.
TÂM TÌNH NGƯỜI VIẾT
Người viết bài này hân hạnh trước đây đã có mặt trong tất cả các buổi trình diễn Nhạc Võ Tây Sơn, nhưng không có lần nào mãn nguyện. Bởi lẽ, theo người viết, bộ môn văn hóa này cần phải được chấn hưng và trình diễn theo đúng truyền thống. Thế nhưng từ trước đến giờ, về mặt chính quyền thì ít để ý đến, mặc dù trên thực tế đã công nhận nó là hay và siêu việt nhưng không đật thành kế hoạch để chấn hưng. Còn nghệ sĩ thì vì thiếu sự để ý, đề cao của chính quyền, nên mặc cảm bị bỏ rơi, phần thì bận rộn sinh kế làm ăn nên cũng không công đâu tập luyện. Cho nên trong tất cả những lần trình diễn, người nghệ sĩ đều ở trong tình trạng bị “bắt cóc”, chẳng khác nào bắc nước sôi rồi mới đuổi gà nên không tránh khỏi sự lụp chụp vì thiếu chuẩn bị, thiếu tập dợt; nghệ sĩ nhớ được ngón nào học được của ngày trước thì trổ ra ngón ấy chứ không có thì giờ xét duyệt lại, tập tành thêm cho hay, cho hoàn mỹ và thường chỉ trình diễn thuần việc đánh trống, thiếu phần phụ họa.
Người viết xin mạn phép ước mơ mà đề nghị với nhà hữu trách Việt Nam sau này, nặng tình với Văn Hoá Dân Tộc, nếu xét thấy bộ môn Nhạc Võ Tây Sơn là một quốc túy và có một giá trị lịch sử huy hoàng thì cần phải đật kế hoạch cụ thể để bảo tồn và phát huy. Tìm kiếm những nghệ sĩ nào còn giữ được chân truyền bộ môn này, truyền lại cho đoàn hậu tấn.
Ngày xưa, “Người Việt đã nghe tiếng gọi của Trưng Trắc, Trưng Nhị mà chống lại Tô Ðịnh muốn lấy luật pháp mà trói buộc; đã mười năm gian khổ theo Lê Lợi để khỏi phải bím tóc và kết đuôi sam giống người Minh; đã cùng Nguyễn Huệ đánh trống tiến quân vào Thăng Long để đuổi đám tướng binh nhà Thanh nhiễu loạn cuộc sống của dân chúng. Và chắc chắn mãi mãi về sau này, dân tộc Việt Nam còn thì văn hóa dân tộc Việt Nam cũng vẫn có, và vẫn còn cái tinh thần bất khuất để bảo vệ nền văn hóa của dân tộc” (2). Bởi vì tiếng trống Lạc Việt luôn luôn mang nặng tình tự dân tộc và văn hóa Việt Nam không bao giờ thiếu vắng tiếng trống đặc trưng đó

Đừng để hướng dẫn viên du lịch xuống dốc

Hằng năm gia đình tôi đi du lịch hai đợt, hè và tết. Mỗi đợt vài chuyến, nhất là hè. Ban đầu tôi không chú ý lắm những lời của hướng dẫn viên du lịch (HDVDL), thế nhưng càng lúc nhận ra sự “xuống dốc” về chất cả hai nghĩa đen lẫn bóng của những người được gọi là HDVDL.
Ảnh chỉ có tính minh họa

Có HDVDL lên xe là kể nhảm nhí về chuyện tình tiền tù tội của những ca sĩ, nghệ sĩ nổi tiếng. Nào là ca sĩ X mới mua căn nhà tại quận này, nào là nghệ sĩ Y vừa mới chia tay với bồ. Có HDVDL kể chuyện tiếu lâm thật “phô” bất chấp đối tượng trên xe là giáo viên, trẻ em, phụ nữ. Tệ hơn, có HDVDL không nắm vững lịch sử những địa danh, thắng cảnh mà cứ tuôn ra những chi tiết như: “hồ Than Thở (Đà Lạt) là do người dân Đà Lạt xây dựng”... Hoặc đồi thông Hai Mộ là do năm 1975, hai người yêu nhau, một người đi bộ đội (?) chết, cô gái ở lại buồn quá đã tự tử, người nhà mới mang thi hài người yêu của cô về chôn trên đồi thông cùng cô. Trong khi ai cũng biết hồ Than Thở là miệng núi lửa đã tắt và truyền thuyết đồi thông Hai Mộ tôi được nghe từ lúc còn rất nhỏ (năm nay tôi đã 53 tuổi).
Có HDVDL thường bịa ra những câu chuyện vô thưởng vô phạt như nàng tiên xuống trần yêu người trần và đến lúc phải về trời đã khóc như mưa nên người trần gian mới đặt ngọn núi Chứa Chan. Một đứa con nít cũng thấy không có liên quan gì giữa nước mắt và ngọn núi cả. Nếu nói nước mắt tạo nên dòng suối thì còn có lý. Rất tai hại là HDVDL luôn nghĩ khách tham quan là “những người không biết gì” nên một số người mặc sức tán hươu tán vượn...
Một điều cần lưu ý nữa là các trường đào tạo cũng như các công ty du lịch không chỉ quá dễ dãi đối với trình độ chuyên môn của HDVDL mà còn với cách phát âm của họ. Thật phản cảm khi nghe: “Tại đây các cô chú có thể mua “gụ” (rượu)...”. Họ phát âm chữ tr thành ch một cách “đau đớn”: “Ở dưới xe các bác có “gác” (rác) bỏ “chong” (trong) cái bao này”...
Dù là HDVDL nội địa chúng ta cũng nên tuyển người có trình độ tối thiểu về những địa danh lịch sử hay danh lam thắng cảnh. Và hơn hết phải phát âm nếu không chuẩn Hà Nội cũng là chuẩn Sài Gòn. HDVDL không chỉ giúp người dân tham quan mà còn tạo sợi dây liên kết giữa người dân và lịch sử cũng như cảnh đẹp đất nước, là người tạo nên sự tự hào về lịch sử, đất nước, con người. Hơn thế HDVDL còn phải là tấm gương học tập của các khách hàng nhí, để các em thấy mà học theo.

Theo TTOL

Bạn muốn hợp lớp theo hình thức nào?

Mẹ ơi cho con mơ



Không phải để tưqj quảng bá bản thân, cũng không phải để khoe tài năng... Mr_Lâm xin gửi tặng các bạn ca khúc "Mẹ ơi, cho con mơ".

Đây là một sáng tác của Nông Tiến Bắc thành viên nhóm Cuộc Sống.

Bản thu này đã có dịp được chia sẽ cùng lớp mình rùi, không biết có ai nhớ không.




Trong cơn mơ con luôn nhớ về mẹ cha còn thầm mong nhớ
Trong cơn mơ con luôn nhớ về, mẹ ơi con nhớ nhà mình lắm
Chiến tranh giết đi con rồi, chiến tranh cướp đi con rồi.
Mẹ ơi ! Cho con mơ
Khi con đi ra xa mặt trận mẹ ơi linh hồn con đó !
Trong tim con con luôn nhớ về,mẹ ơi con nhớ nhà mình lắm
Chiến tranh giết đi con rồi, chiến tranh cướp đi con rồi
Mẹ ơi ! Cho con mơ
Ref: Cho con mơ về mẹ
Cho con mơ về mình
Mẹ ơi ! Cho con mơ !